Chủ thể Tội Cố ý làm lộ bí mật Nhà nước hoặc chiếm đoạt, tiêu huỷ, mua bán tài liệu bí mật Nhà nước
Thường. Tuy nhiên, người phạm tội này cũng thường là những người có trách nhiệm giữ bí mật Nhà nước, những người này nếu cố ý làm lộ bí mật Nhà nước thì thường lợi dụng chức vụ, quyền hạn.

Hành vi Tội Cố ý làm lộ bí mật Nhà nước hoặc chiếm đoạt, tiêu huỷ, mua bán tài liệu bí mật Nhà nước
Cố ý làm lộ bí mật Nhà nước
Hành vi làm lộ bí mật Nhà nước được biểu hiện ra bên ngoài bằng lời nói, chữ viết hoặc cho người khác xem, nghe, đọc, sao chụp bí mật Nhà nước.v.v…
Làm lộ bí mật bằng lời nói là trường hợp nói hoặc kể cho người khác nghe những tin tức thuộc bí mật Nhà nước mà mình biết. Ví dụ: Nguyễn Quang B là Điều tra viên biết được chủ trương xử lý vụ án, nên đã kể lại cho Bùi Văn T là đối tượng bị tình nghi biết; nhờ những tin tức mà B cho biết, T đã tiêu huỷ tài liệu, sổ sách nhằm che giấu hành vi phạm tội tham ô của mình, nhờ vậy mà Cơ quan điều tra không đủ chứng cứ để khởi tố T.
Làm lộ bí mật bằng chữ viết là trường hợp viết ra những tin tức thuộc bí mật Nhà nước mà mình biết để người khác đọc. Ví dụ: Vũ Quốc H là cán bộ Viện khoa học biết được các số liệụ kết quả nghiên cứu về lĩnh vực giống nuôi trồng thuỷ sản mà theo quy định thì kết quả này chưa được công bố, nhưng vì muốn bài tham luận của mình trước hội nghị khoa học quốc tế có sức thuyết phục, nên H đã dùng các số liệu này để chứng minh cho luận điểm của mình tại hội nghị.
Cho người khác xem, nghe, đọc, sao chụp là trường hợp, người có trách nhiệm quản lý, cất giữ, bảo quản các tin tức bí mật Nhà nước, đã để người khác xem, nghe, đọc, sao chụp hoặc để người khác chiếm đoạt các tin tức đó.
Để cho người khác nghe được tin tức bí mật Nhà nước trong trường hợp này là để người khác nghe băng ghi âm chứ không phải kể cho người khác nghe.
Nếu để cho người khác chiếm đoạt tin tức bí mật Nhà nước chỉ có thể là trường hợp người phạm tội đồng phạm với người chiếm đoạt tin tức bí mật Nhà nước và người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước” mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “cố ý làm lộ bí mật Nhà nước”, vì nếu do thiếu trách nhiệm hay do sơ xuất mà để người khác chiếm đoạt tin tức bí mật Nhà nước thì không phải là cố ý mà thuộc trường hợp tội vô ý làm lộ bí mật Nhà nước, tội làm mất tài liệu bí mật Nhà nước.
Không thuộc trường hợp quy định tại tội gián điệp.
Chiếm đoạt, tiêu huỷ, mua bán tài liệu bí mật Nhà nước
tội phạm này nhà làm luật quy định ba hành vi phạm tội trong cùng một tội danh, nên việc nghiên cứu hành vi khách quan của tội phạm này cũng được nghiên cứu theo từng hành vi khác nhau, đó là:
Chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước là hành vi dùng các thủ đoạn lén lút, gian dối, uy hiếp thể chất hoặc tinh thần đối với người quản lý tài liệu bí mật Nhà nước để lấy các tài liệu đó hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp quản lý tài liệu bí mật Nhà nước để lấy các tài liệu đó.
Có thể hiểu một cách khái quát là chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước là hành vi cướp, cướp giật, cưỡng đoạt, công nhiên, trộm cắp, lừa đảo, tham ô, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước.
Tuy nhiên, đối với tài liệu bí mật Nhà nước, người phạm tội chiếm đoạt là chiếm đoạt thông tin bí mật trong tài liệu đó, chứ không phải bản thân tài liệu đó, vì vậy có trường hợp tài liệu không bị mất nhưng thông tin bí mật trong tài liệu đó đã bị người phạm tội chiếm đoạt thì người phạm tội vẫn bị coi là đã chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước.
Chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước cũng tương tự như hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng tính chất và mức độ nguy hiểm cao hơn, cũng như đối với một số trường hợp chiếm đoạt khác như: chiếm đoạt vũ khí quân dụng, chiếm đoạt ma tuý…
Nếu người phạm tội chiếm đoạt tài sản, nhưng trong tài sản có tài liệu bí mật Nhà nước mà người phạm tội không có mục đích chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước thì họ chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm đoạt tài sản.
Nếu người phạm tội không có mục đích rõ ràng, miễn là chiếm đoạt được tài sản còn tài sản đó là cái gì thì không quan tâm và trong tài sản đã chiếm đoạt có tài liệu bí mất Nhà nước nhưng vẫn cất giữ hoặc tiêu huỷ thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tôi, chiếm đoạt tài sản và chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước
Mua bán tài liệu bí mật Nhà nước là hành vi dùng tiền hoặc tài sản để mua tài liệu bí mật Nhà nước để cất giữ, để bán lại cho người khác hoặc bán tài liệu bí mật Nhà nước mà mình quản lý, cất giữ cho người khác để lấy tiền hoặc tài sản.
Mua bán là một từ ghép gồm có mua và bán, nhưng nhà làm luật không quy định mua, (phẩy) bán nên chỉ cần có hành vi mua nhưng không bán hoặc chỉ có hành vi bán mà không mua là bị coi là “mua bán” mà không nhất thiết phải có cả hành vi mua và hành vi bán.
Mua bán còn bao gồm cả hành vi dùng tài sản hoặc lợi ích vật chất khác để đổi lấy tài liệu bí mật Nhà nước như: dùng đồng hồ, xe máy, vàng, bạc… hoặc mời đi nghỉ mát, tham quan.
Khi xác định hành vi mua bán tài liệu bí mật Nhà nước cần phân biệt trường hợp người phạm tội dùng tiền hoặc tài sản hối lộ cho người quản lý tài liệu bí mật Nhà nước để người quản lý tài liệu bí mật Nhà nước giao tài liệu bí mật Nhà nước cho mình thì không coi là hành vi mua bán tài liệu bí mật Nhà nước mà tuỳ trường hợp người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự hình sự về tội đưa hối lộ và tội chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước với vai trò đồng phạm, còn người nhận hối lộ để cung cấp tài liệu bí mật Nhà nước cho người đưa hối lộ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ và tội chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước.
Tiêu huỷ tài liệu bí mật Nhà nước là làm cho tài liệu bí mật Nhà nước không còn giá trị sử dụng được nữa.
Hành vi tiêu huỷ được thể hiện bằng nhiều cách như: đốt cháy, xét nát, nghiền nát, đập phá, dùng các hoá chất để huỷ hoại.v.v… hành vi tiêu huỷ tài liệu bí mật Nhà nước cũng giống như hành vi huỷ hoại hoặc làm hư hỏng tài sản, nhưng đối với tài liệu bí mật Nhà nước nhà làm luật không dùng thuật ngữ huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng mà dùng thuật ngữ “tiêu huỷ” là phù hợp hơn.
Nếu người phạm tội tiêu huỷ tài liệu, trong đó có tài liệu bí mật Nhà nước, có tài liệu không phải là bí mật Nhà nước không phải là bí mật Nhà nước, mà người phạm tội không nhận thức được đó là tài liệu bí mật Nhà nước thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “tiêu huỷ của cơ quan Nhà nước”;
nếu người phạm tội vì mục đích nhằm che giấu tội phạm mà tiêu huỷ tài liệu, không cần biết đó là tài liệu gì thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: tội tiêu huỷ tài liệu bí mật Nhà nước và tội tiêu huỷ của cơ quan Nhà nước.
Hành vi chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ bí mật Nhà nước không thuộc trường hợp quy định tội gián điệp.
Bài viết cùng chủ đề Phân tích tội Cố ý làm lộ bí mật Nhà nước – Điều 337
Phân tích tội chống người thi hành công vụ điều 330
Phân tích tội hành hạ người khác (điều 140)
Trên đây là tư vấn của luatthanhmai về chủ đề Phân tích tội Cố ý làm lộ bí mật Nhà nước – Điều 337. Nếu có thắc mắc hay vấn đề cần được tư vấn vui lòng liên hệ email: luathanhmai@gmail.com để được luật sư tư vấn hỗ trợ miễn phí.