Tổ chức xã hội là gì ?
Tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam có chung mục đích tập hợp, hoạt động theo pháp luật và theo điều lệ, không vì lợi nhuận nhằm đáp ứng lợi ích chính đáng của các thành viên và tham gia vào quản lí nhà nước, quản lí xã hội.

Có các loại tổ chức xã hội nào ?
Từ góc độ nghiên cứu, dựa vào tính chất hoạt động của các tổ chức xã hội, có thể phân chia tổ chức xã hội thành những loại cơ bản gồm: tổ chức chính trị; tổ chức chính trị – xã hội; tổ chức xã hội – nghề nghiệp; các hội được lập theo dấu hiệu riêng; tổ chức tự quản phục vụ lợi ích cộng đồng.
Tổ chức chính trị
Tổ chức chính trị là tổ chức mà thành viên gồm những người cùng hoạt động với nhau vì một khuynh hướng chính trị nhất định. Sự tồn tại công khai và hợp pháp của các tổ chức chính trị chỉ được thừa nhận khi quyền lực nhà nước thuộc về một lực lượng xã hội nhất định và việc thành lập các cơ quan quyền lực nhà nước được tiến hành bằng phương pháp bầu cử dân chủ. Tổ chức chính trị tập trung những người tiên phong, đại diện cho giai cấp hay lực lượng xã hội nhất định, thực hiện những hoạt động có liên quan tới mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các tầng lớp xã hội mà hạt nhân của vấn đề này là vấn dề giành và giữ chính quyền.
Trước năm 1988, ở nước ta tồn tại 3 tổ chức chính trị1 với ý nghĩa là ba đảng phái chính trị hợp pháp đống góp to lớn vào sự nghiêp giải phóng dân tộc. Hiện nay, tại Việt Nam chỉ còn một tổ chức chính trị duy nhất là Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam hoạt dộng với mục đích chính trị là mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc lấy liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, nhằm đạt mục tiêu giữ vũng độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội được ghi nhận tại điều 4 Hiến pháp 2013.
Đảng cộng sản Việt Namcó cơ cấu tổ chức và acchs sinh hoat chặt chẽ theo điều lệ. Tổ chức của Đảng được chia thành nhiều cấp trong phạm cả nước theo cấp chính quyền. ( Trung Ương: TW Đảng cộng sản Việt Nam. Địa phương: Ở các đô thị: thành ủy, quận ủy, đảng úy; Ở nông thôn: Tỉnh ủy, huyện ủy, xã ủy.)

Tổ chức chính trị – xã hội
Tổ chức chính trị- xã hội là các tổ chức được thành lập bởi các thành viên đại diện cho lực lượng xã hội nhất định, thực hiện các hoạt động xã hội rộng rãi và có ý nghĩa chính trị nhưng các hoạt động này không nhằm mục đích giành chính quyền. Tổ chức này tồn tại và hoạt động bên cạnh các tổ chức chính trị với tính chất hỗ trợ hoạt động cho tổ chức chính trị.
Đặc thù: Hình thành và hoạt động trên cơ sởnguyên tắctập trung dân chủ2 ; thành viên là các cá nhân, tổ chức gồm nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội là cơ sở của chính quyền nhân dân, tạo nên liên minh giữa các giai cấp: tổ chức và hoạt động theo điều lệ, một số tổ chức có pháp luật điều chỉnh riêng.
Một số tổ chức chính trị xã hội tiêu biểu ở Việt Nam là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Hội cựu chiến binh.
Tổ chức xã hội nghề nghiệp
Tổ chức xã hội nghề nghiệp là tập hợp tự nguyện của các cá nhân, tổ chức cùng thực hiện các hoạt động nghề nghiệp, được thành lập nhằm hỗ trợ các thành viên trong hoạt động nghề nghiệp và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên.
Phân nhóm tổ chức xã hội
Tổ chức xã hội nghề nghiệp được chia thành hai nhóm
Nhóm thứ nhất
Gồm các tổ chức xã hôi xác lập một nghề riêng biệt được Nhà nước thừa nhận, thành viên là những người có chức danh nghề nghiệp của tổ chức đó do Nhà nước quy định, hoạt động nghề nghiệp được tiến hành theo pháp luật chuyên biệt và đặt dưới sự quản lí của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong phạm vi luật quy định có thể thực hiện những tác động quản lí đối với nghề nghiệp của thành viên. Ví dụ: Đoàn luật sư, Hiệp hội trọng tài, Hiệp hội công chức.
Căn cứ vào các dấu hiệu sau để xác định các tổ chức xã hội thuộc loại xã hội – nghề nghiệp đặc thù: Xác lập nghề nghiệp riêng biệt được nhà nước thừa nhận, thành viên của tổ chức phải đáp ứng các tiêu chuẩn nghề nghiệp do Nhà nước quy định bằng pháp luật; chỉ các thành viên tổ chức mới có chức danh nghề nghiệp của tổ chức và coi hoạt động nghề nghiệp của tổ chức là hoạt động của mình. Tuy nhiên nó vẫn có đầy đủ các dấu hiệu chung của tổ chức xã hội.
Nhóm thứ hai, các hội nghề nghiệp , đây là các tổ chức xã hội được thành lập theo dấu hiệu nghề nghiệp, thành viên tổ chức là các cá nhân, tổ chức yêu thích ngành nghề đó, tự nguyện tham gia. Ví dụ như hội làm vườn, hội những người nuôi ong, hiệp hội mây tre đan…
Các hội được thành lập theo dấu hiệu riêng
Là các tổ chức tự nguyện của công dân Việt Nam có cùng ngành nghề, sở thích hoặc các dấu hiệu khác.
Đặc thù:
Các hội hoạt động trong phạm vi cả nước hoặc nhiều tỉnh do bộ trưởng bộ Nội vụ cấp giấy phép thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất và phê duyệt điều lệ.
Các hội hoạt động trong phạm vi tỉnh do chủ tỉnh Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp giấy phép thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất và phê duyệt điều lệ.
Tên của hội do các thành viên thống nhất quyết định, được ghi nhận trong điều lệ của hội và phải được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận thông qua việc cấp phép thành lập hội.
Điều lệ của hội không trái với pháp luật và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Công dân, tổ chức Việt Nam có đủ điều kiện là hội viên theo quy định của hội thì đều có thể trở thành hội viên của hội.
Hội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự trang trải kinh phí và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Ví dụ: Hội những người yêu thể thao, câu lạc bộ những người yêu thơ, …
Tổ chức tự quản phục vụ lợi ích cộng đồng
Tổ chức tự quản phục vụ cộng đồng được hình thành từ nhu cầu của cộng đồng nhằm góp phần ổn định an ninh trật tự tại cơ sở. Được thành lập theo sáng kiến của nhà nước, hoạt động theo quy định chung của nhà nước nhằm thực hiện nhiệm vụ tự quản trong phạm vi giới hạn tại khu phố, thôn xóm hoặc các đơn vị sự nghiệp, sản xuất kinh tế.
Các tổ chức tự quản thường được thành lập theo chế độ bầu cử dân chủ, giữa các tổ chức cùng loại không có mối quan hệ về tổ chức. Do đó nó không tạo nên tính hệ thống trong phạm vi cả nước.
Ví dụ: tổ dân phố, tổ hòa giải, tổ dân phòng…
Giải thích từ ngữ trong bài
1: “3 tổ chức chính trị”: Đảng lao động (10/9/1960), Đảng xã hội chính đảng (27/2/1946) của tư sản dân tộc và tiểu tư sản, trí thức yêu nước và tiến bộ Việt Nam, Đảng dân chủ (30/6/1944) là chính đảng tập hợp, đoàn kết mọi trí thức yêu nước và dân chủ.
2: “ nguyên tắc tập trung dân chủ” : xem lại lí luận.
3: So sánh 2 nhóm trong tổ chức xã hội nghề nghiệp. Ví dụ Đoàn uật sư và Hội luật gia.
Trên đây là tư vấn của luatthanhmai về chủ đề Phân tích các loại tổ chức xã hội. Nếu có thắc mắc hay vấn đề cần được tư vấn vui lòng liên hệ email: luathanhmai@gmail.com để được luật sư tư vấn hỗ trợ